✨Ensifera ensifera
Ensifera ensifera là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Chim ruồi (Trochilidae). Đây là loài duy nhất trong chi Ensifera. Trong số các loài chim ruồi lớn nhất, loài này có đặc điểm đặc trưng là mỏ dài bất thường, và là loài chim duy nhất có mỏ dài hơn phần còn lại của cơ thể, không kể đuôi. Chim sử dụng mỏ của mình để hút mật hoa từ những bông hoa có tràng hoa dài và đã đồng tiến hóa với loài Passiflora mixta. Trong khi hầu hết các loài chim ruồi rỉa lông bằng mỏ thì Ensifera ensifera sử dụng chân để cào và rỉa lông do mỏ của chúng quá dài.
Ensifera ensifera là loài ăn mật hoa, đặc biệt là từ Passiflora mixta và các loài hoa lạc tiên khác. Chim cũng đớp côn trùng trong không trung. Loài này sinh sản từ tháng 2 đến tháng 3 và chúng xây tổ bằng rêu. Ensifera ensifera được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phân loại là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN, nhưng hiện đang bị đe dọa bởi biến đổi khí hậu và nạn phá rừng.
Phân loại và hệ thống
Ensifera ensifera được Auguste Boissonneau mô tả lần đầu tiên là Ornismya ensifera vào năm 1839, trên cơ sở các mẫu vật từ Santa Fé, Bogotá, Colombia. Loài này được René Lesson chuyển đến chi Ensifera vào năm 1843. Tên của chi và loài ensifera có nguồn gốc từ các từ Latinh ensis (kiếm) và ferre (mang theo) và có nghĩa là "chim mang kiếm", ý chỉ cái mỏ lớn của loài này. "Sword-billed hummingbird" là tên thông thường chính thức bằng tiếng Anh do Hiệp hội Điểu học Quốc tế (IOU) chỉ định. Các tên thông thường khác của loài này là "sword billed hummingbird", "swordbill" và "swordbill hummingbird".
Ensifera ensifera là loài duy nhất thuộc chi Ensifera. Vào năm 1939, Ensifera ensifera caerulescens được Willoughby Lowe mô tả là một phân loài trên cơ sở một mẫu vật từ Bảo tàng Tưởng niệm Hoàng gia Albert. Tuy nhiên, sau đó phân loài này đã được gộp chung với các phân loài đại diện vì có khả năng mẫu vật đó có bộ lông khác thường hoặc bị đổi màu. Ensifera ensifera hiện nay được coi là đơn loài (không có phân loài).
Miêu tả
thế=Sword-billed hummingbird perching on a branch facing left|trái|nhỏ|Ensifera ensifera đậu trên cây. Ensifera ensifera là một trong những loài chim ruồi lớn nhất. Con trưởng thành dài không cộng mỏ và nặng , với con đực có chỉ số trung bình lớn hơn con cái một chút. Đặc điểm nổi bật nhất của loài này là chiếc mỏ khổng lồ dài . Loài này có chiếc mỏ dài nhất trong số các loài chim ruồi và dài nhất so với chiều dài cơ thể với bất kỳ loài chim nào. Loài này sinh sống ở rừng núi ẩm ướt, bìa rừng, đồng cỏ cây bụi, khu vườn và các mảng páramo ở độ cao , nhưng phổ biến nhất ở độ cao . Loài này nhìn chung là không di trú xa, nhưng có các cuộc di trú cục bộ ở Colombia và tây bắc Venezuela, khi chúng di chuyển đến nơi cao hơn vào đầu mùa mưa và quay trở lại nơi thấp hơn trong mùa khô.
Hành vi và sinh thái học
nhỏ|Chim đang bay Giống như các loài chim ruồi khác, Ensifera ensifera có thể bay lùi và lơ lửng trong không trung. Chim cũng thể hiện mức wing-disk loading cao hơn mức trung bình so với các loài khác trong họ. trái|nhỏ|242x242px|Một cá thể Ensifera ensifera cái ăn mật trong khi đang bay.
Chế độ ăn uống và kiếm ăn
Ensifera ensifera là một loài kiếm ăn chuyên biệt, chủ yếu ăn mật của những loài hoa có cánh hoa dài, bao gồm Brugsmania sanguinea, Datura stramonium, Passiflora mixta, P. pinnatistiplua, P. mollissima và P. sexflora, cũng như hoa thuộc các chi Aethanthus, Fuchsia, Salpichroa và Solanum. Loài này thăm dò các bông hoa từ bên dưới và ghé thăm một loạt bông hoa cụ thể theo trình tự đều đặn, nhất quán. Chim cũng đớp côn trùng đang bay trong không trung bằng cách giữ mỏ mở.
Sinh sản
Ensifera ensifera sinh sản từ tháng 2 đến tháng 3. Tổ có hình chiếc cốc, làm bằng rêu và thường được treo giữa các sợi rễ cao trên mặt đất. Để lấy mật hoa, chim ruồi sẽ thọc cái mỏ dài của chúng xuống ống của bao hoa (cả hai đều có chiều dài gần như chính xác bằng nhau), uống, sau đó rút mỏ và bay lượn trong vài giây trước khi lặp lại quy trình. Các loài khác, chẳng hạn như côn trùng, có thể tiếp cận mật hoa, nhưng chúng chọc thủng gốc và hút qua lỗ thủng thay vì ống bao hoa. Bằng chứng bổ sung về sự đồng tiến hóa là cả hai loài cùng sinh sống trên cùng một phạm vi lãnh thổ dọc theo dãy núi Andes. Nếu quần thể Ensifera ensifera suy giảm, rất có thể sẽ có tác động tiêu cực đến sự phong phú của P. mixta do sự đồng tiến hóa cực độ của chúng.