✨Họ Lội suối
Họ Lội suối hay họ Hét nước (danh pháp khoa học: Cinclidae) là một họ nhỏ chứa các loài chim dạng sẻ trong một chi duy nhất có danh pháp Cinclus. Tên gọi lội suối hay hét nước là từ các chuyển động nhấp nhô bập bềnh hay dìm mình xuống dưới mặt nước của chúng. Chúng là độc nhất vô nhị trong số các loài chim của bộ Sẻ có khả năng bơi và lặn dưới nước.
Phân loại
Chi Cinclus là duy nhất trong họ Cinclidae. Các loài lội suối (hét nước) có:
- Cinclus cinclus: Chim lội suối hay hoét nước họng trắng, hoét nước Á-Âu. Loài này là loài hét nước duy nhất có mặt tại Việt Nam.
- Cinclus leucocephalus: Hét nước mũ trắng
- Cinclus mexicanus: Hét nước Mỹ
- Cinclus pallasii: Lội suối nâu, hét nước nâu
- Cinclus schulzi: Hét nước họng hung
Miêu tả
Các loài hét nước là chim nhỏ nhưng mập mạp với đuôi và cánh ngắn, chân khỏe. Các loài nói chung có bộ lông màu nâu sẫm (đôi khi gần như đen) hay nâu và trắng, trừ hoét nước họng hung có màu nâu với vệt lông trên cổ họng màu nâu ánh đỏ. Kích thước dài dao động từ 14 tới 22 cm và cân nặng 40-90 g, với chim trống to hơn chim mái. Các cánh ngắn làm chúng có kiểu bay xoay tít rất dặc trưng. Chúng có chuyển động nhấp nhô bập bềnh đặc trưng khi đậu gần nước.
Phân bố và môi trường sinh sống
Hét nước được tìm thấy tại các môi trường sống nước ngọt phù hợp trên các cao nguyên của châu Mỹ, châu Âu và châu Á. Tại châu Phi chúng chỉ có ở khu vực dãy núi Atlas thuộc Maroc. Chúng sinh sống trên bờ các con sông miền núi nước chảy nhanh với nước lạnh và sạch mặc dù ngoài mùa sinh sản chúng cũng có thể sống tại các bờ hồ hay ven bờ biển. Chúng cũng có các nắp mũi để không cho nước chui vào các lỗ mũi. Máu của chúng có tỷ lệ hemoglobin cao, cho phép khả năng lưu trữ oxy lớn hơn so với chim sống trên mặt đất và cho phép chúng có thể lặn dưới nước tới ít nhất là 30 giây. Con mồi của chúng chủ yếu là động vật không xương sống như ấu trùng của phù du (bộ Ephemeroptera), ruồi đen (họ Simuliidae), bọ đá (bộ Plecoptera) và bọ cánh lông (bộ Trichoptera), cũng như cá nhỏ và trứng cá. Động vật thân mềm và động vật giáp xác cũng có thể là thức ăn của chúng, nhất là trong mùa đông khi ấu trùng của côn trùng khan hiếm hơn. Thời gian ấp trứng là 16-17 ngày và sau đó nở thành chim non yếu ớt không thể tự đi kiếm ăn ngay được và chúng được chim mẹ ấp trong vòng 12-13 ngày kế tiếp. Chim non được cả chim bố lẫn chim mẹ cho ăn trong vòng khoảng 20-24 ngày. Chim non thường sẽ sống độc lập với bố mẹ chúng trong phạm vi vài tuần sau khi rời tổ. Hét nước có thể đẻ ngay lứa thứ hai nếu điều kiện thuận lợi. Hét nước cũng liên lạc với nhau bằng các chuyển động ngâm mình hay nhấp nhô bập bềnh trong nước rất đặc trưng của chúng, cũng như bằng cách nháy mắt nhanh để lộ ra các mí mắt nhạt màu của chúng như là một loạt các tín hiệu màu trắng trong các biểu lộ tán tỉnh hay đe dọa.
Bảo tồn
Hét nước phụ thuộc hoàn toàn vào các con sông, suối có nước chảy nhanh với nước trong, nguồn thức ăn có thể tiếp cận được và khu vực làm tổ an toàn. Chúng có thể bị đe dọa do bất kỳ ảnh hưởng nào tới các nhu cầu này như ô nhiễm nước, axít hóa và các tác nhân khác gây đục nước như xói mòn. Việc điều chỉnh dòng sông như tạo ra các hồ chứa nước và đập ngăn nước, cũng như sự tạo ra nhiều kênh lạch có thể làm suy giảm và phá hủy môi trường sống của chúng.