✨Lê Quýnh

Lê Quýnh

Lê Quýnh (, Nôm: 黎侗; 1750 - 1805) hay Lê Doãn Hữu (黎允有), là một võ quan Đại Việt triều Lê trung hưng. Ông được xem là một trung thần của vua Lê Chiêu Thống.

Sinh bình

Quýnh vốn là tên cúng cơm của ông Lê Doãn Hữu (黎允有), nguyên quán tại hương Đại Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).

Ông là trai trưởng của tiến sĩ Lê Doãn Giản. Xuất thân từ một thế gia vọng tộc, tuy chỉ là ấm sinh xuất thân nhưng gia đình ông luôn tận trung với triều đình và hết sức để khuông phò chính thống.

Vào năm 21 tuổi, Lê Quýnh được bổ làm học sinh ở Chiêu Văn quán. Khi tuổi trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều chưa hề luyện tập qua. Vì là con nhà quý tộc thân cận, nên được vào làm gia thần nhà vua. Do có nho sinh xuất thân nên được cử trông coi vệ binh tả hữu, tước hiển cung đại phu.

Năm 1774, khi vừa 25 tuổi, cha mất, ông về quê để phụng dưỡng mẹ.

Đến năm 1803, sau khi nhà Tây Sơn đã bị diệt, vua Gia Long đã lên ngôi, Lê Quýnh cùng các di thần nhà Lê trung hưng đương còn lưu lạc Bắc quốc mới xin đem hài cốt Lê Mẫn Đế, thái hậu và thái tử (con trai đầu của Lê Chiêu Thống) về nước để an táng. Việc này được hoàng đế Gia Khánh chuẩn thuận, lại sai người sắp đặt chuyến đi rất chu đáo.

Ngày 13 tháng 8 năm 1804, đoàn hộ tống di hài gồm 3 người về tới Bắc Thành, Gia Long đế cho an táng tại đất Lam Kinh cũ. Tương truyền, trong những năm cuối đời sống tại quê nhà, Lê Quýnh không chịu sửa lối ăn mặc theo luật nhà Nguyễn, ông vẫn xõa tóc mặc áo cừu đi lang thang khắp các đền chùa như một người khất thực.

Ngày 16 tháng 9 âm lịch năm Ất Sửu (1805), ông mất, hưởng dương 55 tuổi.

Lê Quýnh ở Trung Hoa 16 năm, trong số 25 người không chịu khuất phục ông là người đứng đầu sổ nên khi chết được vua Gia Long đặt tên thuỵ là Trung Nghị và được thờ trong đền ở Hà Nội.

Tác phẩm

Tác phẩm của Lê Quýnh còn lưu lại khá nhiều, gồm các tập Bắc hành tùng ký (北行叢記), Bắc hành lược biênBắc sở tự tình phú, có phẩm chất sử liệu và văn chương lớn.

Gia thế

  • Lê Doãn Giản: Cha.
  • Lê Huy Lý: Anh họ.

    Vinh danh

    Mùa hè năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở Bộ Hộ theo lời bàn kê rõ lý lịch các vị cựu thần nhà Hậu Lê, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía Tây thành Đông Kinh, tại phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận (nay là ngõ 124, đường Thụy Khê, Hà Nội. Ngoài ra, ở phía Đông thờ 5 người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên Định. Ở nhà phía Tây thờ 5 người là Trần Lương, Trần Đăng, Vũ Trọng Dật, Trần Dần, Trần Hạc. Từ Lê Quýnh trở xuống cộng 33 người, trên đầu đều đề là Cố Lê tiết nghĩa thần và ngôi đền cũng đề là Cố Lê tiết nghĩa từ.

Từ năm 1954, tại Hải Phòng có một con đường mang tên Lê Quýnh để tôn vinh ông.