✨Lưu Nghị (Tây Tấn)
Lưu Nghị (chữ Hán: 刘毅, 216 – 285) là quan viên nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng vì dám trực diện so sánh Tấn Vũ đế với hai hôn quân Hán Hoàn Đế, Hán Linh Đế.
Thời Tào Ngụy
Nghị tự Trọng Hùng, người huyện Dịch, quận Đông Lai . Nghị là hậu duệ của Thành Dương Cảnh vương Lưu Chương; cha là Lưu Giai, được làm Thừa tướng thuộc.
Nghị tính hiếu thuận, từ nhỏ trong sạch, rắn rỏi, lại còn ưa thích bình luận nhân vật, khiến vương công, quyền quý trông thấy thì tránh xa. Nghị kiều ngụ ở quận Bình Dương, được thái thú Đỗ Thứ (cha Đỗ Dự) mời làm công tào; ông sa thải quận lại hơn trăm người, được người Tam Ngụy khen ngợi . Họ đặt lời rằng: “Chỉ nghe Lưu công tào, không nghe Đỗ phủ quân.” Nghị được đeo hàm Quang lộc đại phu về phủ đệ, trước cửa được đặt công cụ cản ngựa (khiến người ta phải xuống ngựa mới có thể đi qua), còn được ban trăm vạn tiền.
Tháng giêng năm Thái Khang thứ 5 (284), có rồng xuất hiện trong giếng của Vũ khố, đế đích thân đến xem, ra vẻ vui mừng. Trăm quan chúc mừng, Nghị một mình dâng biểu nói: “Xưa rồng giáng ngoài cửa Thì của nước Trịnh, Tử Sản không chúc mừng. Rồng giáng cung đình nhà Hạ, nước dãi chảy không dừng, thầy bói thu lấy chỗ nhầy ấy, đến thời Chu U vương thì mầm vạ mới phát ra. Kinh Dịch nói ‘'tiềm long vật dụng, dương tại hạ dã’ (tạm dịch: rồng lặn chớ dùng, Dương ở dưới vậy). Căn cứ kinh điển, không lễ tiết chúc mừng rồng.” Vũ đế giáng chiếu trả lời: “Chánh đức chưa sửa sang, nên chưa dám tiếp nhận điềm lành. Xem lời tâu, lấy làm giật mình. Việc chúc mừng nên dựa theo điển nghĩa, có gì thì báo ngay.” Bọn Thượng thư lang Lưu Hán bàn rằng: “Mình rồng xanh sẫm, lẫn lộn vằn trắng, ý nói việc Đại Tấn nên làm là xếp võ hưng văn. Thế mà Nghị suy diễn là hiện tượng yêu dị, để nghi ngờ điềm lành hôm nay. Còn cho rằng rồng ở giếng là ‘tiềm’, mất hết ý nghĩa. ‘Tiềm’ có ý nói: lánh nên không thấy. Nay hoa văn của rồng xán lạn, thấy rõ hình dạng, không thể nói là ‘tiềm’ vậy. Nghị đáng bị luận tội.” Đế trả lời không đồng ý. Sau đó xuất hiện dị tượng âm khí tan rồi lại hợp, Nghị nhân đó nói: “Ắt có bề tôi a dua kết đảng, gián trá phụng sự nhà vua, mới là cái cớ đáng giết mà không giết đấy.”
Nghị đêm ngày làm việc, có lúc ngồi mà đợi sáng, nói năng ngay thẳng, không hề thiên vị, được triều dã xem là tấm gương. Từng gặp dịp Nghị tham dự cuộc trai giới của hoàng đế nhưng phát bệnh, vợ ông đến thăm. Vì trai giới không được gần đàn bà, Nghị bèn tâu đòi trị tội vợ mình. Vợ con có lỗi, Nghị phạt đòn roi; ông công chánh như vậy, nên bị xem là quá ngay thẳng, không thể làm được tể tướng. Đế cho rằng Nghị thanh bần, ban cho 30 vạn tiền, hằng ngày cấp gạo, thịt.
Hậu nhân
Lưu Nghị có 2 con trai:
- Lưu Thôn, tự là Trường Thăng, cố sự được chép phụ vào truyện của Nghị, về sau bị Thạch Lặc sát hại.
- Lưu Tổng, tự là Hoằng Kỷ, tính hiếu học, ngay thẳng và trong sáng. Tổng được kế tự chú là Lưu Bưu, làm đến Bắc quân trung hậu.