✨Ngô Hi
Ngô Hi (chữ Hán: 吳曦, 1162 - 1207), nguyên quán ở Lũng Can, Đức Thuận quân, là tướng lĩnh dưới triều Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân con cháu danh tướng, trong giai đoạn bắc phạt Khai Hi được giao nhiệm vụ cai quản đất Thiểm Tây; nhưng lại đầu hàng và dâng đất cho người Kim; cuối cùng bị các tướng dưới quyền vốn vẫn trung thành với nhà Tống giết chết.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Ngô Hi là cháu nội của Tín vương Ngô Lân, danh tướng kháng Kim đầu thời Nam Tống; con trai thứ của thái úy Ngô Đĩnh. Ông chào đời vào năm 1162 dưới triều vua Hiếu Tông nhà Tống.
Ngô Hi ngay từ nhỏ đã có ý không phục chính quyền Nam Tống đương thời. Năm ông lên 10 tuổi, khi được Ngô Đĩnh hỏi về chí hướng sau này, Ngô Hi đã nói ra những lời lẽ có ý bất mãn với triều đình và mong muốn li khai. Ngô Đĩnh thấy vậy giận quá, đá ông vào cái lò lửa gần đó, nên khuôn mặt trở nên đen hơn người thường, vì thế bị gọi là Ngô Ba Tử. Tuy vậy do danh tiếng của gia tộc, Ngô Hi vẫn sớm được bổ dụng vào các chức quan: ban đầu là Hữu thừa phụng lang; năm 1178 đổi thành Vũ Đức lang; trung lang tướng; rồi chuyển thành Vũ Dực lang; tiếp đó là Đoàn luyện sứ Cao châu, Thành, Hòa, Phượng. Kim Chương Tông có ý tranh thủ dụ hàng Ngô Hi để chiếm Thiểm, Thục; nên gửi thư cho ông, hứa phong Thục vương và cho phép đời đời con cháu thế tập, trấn giữ một phương. Do đó, khi Hàn Thác Trụ nhiều lần thúc giục Ngô Hi tiến quân, ông đều chần chừ, án binh ở Hà Trì không tiến.
Thác Trụ cử Trình Tùng đến Tứ Xuyên làm tuyên phủ sứ, Ngô Hi tìm cách giam lỏng những người thân tín của Tùng, do đó Tùng mang danh là chánh sứ nhưng phải nơm nớp lo sợ Ngô Hi. Lúc này bắc phạt thất bại, tướng Kim Bộc Tán Quỹ chia quân nam hạ, cả triều đình Lâm An rúng động. Trong khi chiến sự ở Lưỡng Hoài vẫn đang giằng co thì quân Kim cũng đánh tới Tây Hòa. Các tướng Vương Hỉ, Lỗ Dực ra kháng cự. Trong lúc tình hình đang căng thẳng thì Ngô Hi hạ lệnh lui về giữ Bảo Hắc cốc. Quân Kim nhân đó truy kích theo, quân Tống thảm bại. Ngô Hi bèn đốt Hà Trì, lui về Thanh Dã Nguyên. Trong khi đó Hưng châu hợp Giang Thương Dương Cự Nguyện vẫn có lòng trung, muốn tiêu diệt Ngô Hi, hợp mưu với bọn Lý Hảo Nghĩa, Lý Hảo Cố, Lý Quý tiến hành đại sự; được An Bính tán thành. Ngoài ra còn có Dương Quân Ngọc, Lý Khôn Thần... tổng cộng 18 người.
Đêm Giáp Tuất (28) tháng 2 ÂL (tức 28 tháng 3 năm 1207), Cự Nguyện và Hảo Nghĩa dẫn hơn 70 người xông vào Ngụy cung. Binh lính của Ngô Hi nghe lệnh diệt giặc, đều bỏ vũ khí đầu hàng. Cự Nguyện vào nội thất; Ngô Hi đang định bỏ chạy thì bị Lý Quý đuổi kịp, chém đứt đầu. Năm đó ông 46 tuổi.
An Bính sai người tìm khắp các ngõ ngách, bắt được hai con của Hi cùng chú là Bính, em là Trác, em họ là Hiện; bọn giặc Diêu Hoài Nguyên, Lý Khuê, Quách Trọng, Mễ Tu Chi, Quách Trừng đều bị giết. Bọn Từ Cảnh Vọng, Triệu Phú, Ngô Hiểu... đang ở bên ngoài cũng bị truy lùng và bị giết.
An Bính đem thủ cấp Ngô Hi, con cháu họ Ngô và ấn tín, chiếu thư của vua Kim... tất tật đưa về Lâm An. Triều Tống hạ lệnh giết vợ con Ngô Hi, đoạt quan tước Ngô Đĩnh, đuổi hết con cháu họ Ngô ra đất Thục, riêng con cháu Ngô Giới miễn liên can, Ngô Lân vẫn được thờ phụng trong miếu. An Bính sau đó xuất quân đoạt lại Đại Tản quan; góp phần gỡ gạc cục diện bất lợi của quân Tống khi đó, kết quả là nước Kim phải chấp nhận hòa nghị vào năm 1208 với bản hòa ước Gia Định.