✨Nhập cảm (ngôn ngữ học)
Trong ngôn ngữ học lý thuyết, nhập cảm (tiếng Anh: empathy) là việc người nói đồng nhất mình với 'người/vật tham gia' trong sự kiện hoặc trạng thái mà người nói đó mô tả trong câu.
Một ví dụ có thể thấy trong tiếng Nhật đó là động từ yaru và kureru. Cả hai đều có chung ý nghĩa và khung Cách cơ bản. Nhưng chúng khác nhau ở chỗ yaru được dùng khi hành động được nhìn từ góc nhìn của chủ ngữ lên vật quy chiếu hoặc từ góc nhìn trung dung (khách quan), còn kureru thì được dùng khi sự kiện được mô tả từ góc nhìn của tân ngữ dữ cách lên vật quy chiếu.
- Con chó nằm trong sân.
- Con chó nằm ngoài sân.
- Con chó nằm trên sân.
- Con chó nằm dưới sân.
Một ví dụ khác chỉ sự liên tục thay đổi điểm nhìn của người phát ngôn trong câu văn, làm cho giới từ cũng thay đổi tương ứng: :Hôm ấy tôi ngồi trong nhà nhìn ra sân, thấy con Mực vẫn nằm yên ở ngoài sân. Nhìn ra ngoài đường, tôi trông thấy một người lạ mặt đi ngang (trên đường). Hắn nhìn vào sân nhà tôi, và khi trông thấy con Mực nằm trong sân, hắn dừng lại...
Quay lại hai động từ yaru và kureru trong tiếng Nhật ở phần trên, xét hai câu ví dụ sau:
Cả hai câu đều mô tả việc Taro đưa sách cho Hanako, nhưng câu (1) với động từ yatta (dạng quá khứ của yaru) thì là mô tả từ góc nhìn của Taro hoặc từ góc nhìn trung dung, còn câu (2) với động từ kureta (dạng quá khứ của kureru) thì là từ góc nhìn của Hanako.