✨Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện

Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện

Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện đề cập đến khoảng thời gian từ năm 1942 đến 1945 trong Thế chiến II, khi Miến Điện bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng. Người Nhật đã hỗ trợ thành lập quân đội Miến Điện Độc lập và giúp huấn luyện Ba mươi Đồng chí, những người đã sáng lập nên Lực lượng Vũ trang hiện nay (Tatmadaw). Người Miến hy vọng sẽ được sự hỗ trợ từ phía Nhật để trục xuất người Anh và giành lại nền độc lập.

Năm 1942, trong suốt Thế chiến II, Nhật Bản xâm lược Miến Điện và trên danh nghĩa tuyên bố Miến Điện độc lập dưới tên gọi Nhà nước Miến Điện vào ngày 1 tháng 8 năm 1943. Một chính phủ bù nhìn dưới sự lãnh đạo của Ba Maw được thiết lập. Tuy nhiên, họ đã sớm nhận rõ ra rằng Nhật Bản không có ý định trao lại nền độc lập cho Miến Điện. Aung San cũng đồng sáng lập Đảng Nhân dân Cách mạng (PRP), đổi tên thành Đảng Chủ nghĩa xã hội sau Thế chiến II. Ông còn dùng làm phương tiện trong việc thành lập Bama htwet yat gaing (Khối Tự do) bằng cách cố gắng thực hiện một liên minh của Dobama, ABSU, giới tu sĩ hoạt động chính trị và Đảng Sinyètha (Người Nghèo) của Ba Maw.

Thakins Than Tun và Soe khi đang ở trong nhà tù Insein vào tháng 7 năm 1941 là đồng tác giả của Tuyên ngôn Insein đó, đối chọi những ý kiến ​​phổ biến trong phong trào Dobama, xác định chủ nghĩa phát xít trên thế giới mới là kẻ thù chính trong cuộc chiến sắp tới và kêu gọi hợp tác tạm thời với người Anh trong mối liên kết Đồng Minh rộng hơn bao gồm cả Liên Xô. Soe đã bí mật tổ chức kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản, và Than Tun đã có thể vượt qua được cơ quan tình báo Nhật tới chỗ Soe, trong khi các nhà lãnh đạo cộng sản khác như Thakins Thein Pe và Tin Shwe đã liên lạc với chính quyền thực dân lưu vong tại Simla, Ấn Độ.

Thảm sát Kalagong

Quân đội Nhật đã tiến vào làng Kalagong và bố ráp toàn bộ dân cư để các thành viên của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 215 và OC Moulmein Kempeitai Lục quân Đế quốc Nhật Bản thẩm vấn. Các đơn vị này làm theo lệnh của Thiếu tướng Seiei Yamamoto, Tham mưu trưởng của Tập đoàn quân 33 nhằm dò tìm khu vực dành cho du kích theo như báo cáo có sự hợp tác với lực lượng nhảy dù Anh.

Phụ nữ và trẻ em bị hãm hiếp và đánh đập nhưng chẳng khai thác được bất kỳ thông tin nào. Do đó Kempeitai đã ra lệnh thảm sát toàn bộ ngôi làng. Những người dân làng bị bắt theo nhóm 5-10 người đến các giếng nước gần đó, bịt mắt và đâm bằng lưỡi lê, còn xác của họ bị quẳng xuống giếng. Ước tính có khoảng 600 dân làng Miến Điện đã chết trong vụ thảm sát Kalagong.

Kết thúc cuộc chiếm đóng

thumb|Rangoon bị tàn phá do hậu quả của Thế chiến II. Đã có những mối liên lạc chính thức giữa AFO và Đồng Minh vào năm 1944 và 1945 thông qua Lực lượng 136 của Anh. Ngày 27 tháng 3 năm 1945, Quân đội Quốc gia Miến Điện đã tiến hành một cuộc nổi dậy toàn quốc chống lại Nhật Bản. Ngày 27 tháng 3 được chọn làm lễ kỷ niệm "Ngày Kháng chiến" cho đến khi quân đội đổi tên thành "Ngày Tatmadaw (Lực lượng Vũ trang)". Aung San và những người khác sau đó đã bắt đầu đàm phán với Huân tước Mountbatten và chính thức gia nhập phe Đồng minh trong vai trò Lực lượng Yêu nước Miến Điện (PBF). Tại cuộc họp đầu tiên, AFO đại diện cho chính người Anh đóng vai trò là chính phủ lâm thời của Miến Điện với Thakin Soe là Chủ tịch và Aung San là một thành viên của ủy ban cầm quyền.

Người Nhật đã rút quân ra khỏi toàn lãnh thổ Miến Điện vào tháng 5 năm 1945. Những cuộc đàm phán sau đó được bắt đầu với người Anh nhằm giải giáp của AFO và sự tham gia của quân đội nước này trong quân đội Miến Điện thời hậu chiến. Một số cựu chiến binh đã thành lập một lực lượng bán quân sự dưới sự chỉ huy của Aung San gọi là Pyithu yèbaw tat hay Tổ chức Tình nguyện Nhân dân (PVO) và được rèn luyện công khai trong bộ quân phục. Sự lôi cuốn của PBF đã kết thúc thành công tại hội nghị Kandy ở Sri Lanka vào tháng 9 năm 1945.