✨Qua đèo Ngang

Qua đèo Ngang

Qua Đèo Ngang (chữ Nôm: 過岧卬) là bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ ở thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Với phong cách trang nhã, bài thơ "Qua đèo Ngang" cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả. Bài thơ được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ Văn 7, tập 1 theo chương trình giáo dục phổ thông 2006, Ngữ văn 8, tập 1 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống và Ngữ văn 8, tập 2 bộ sách Chân trời sáng tạo hay Ngữ Văn 8, tập 2 bộ sách Cánh Diều theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 của Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam.

Nguyên tắc

Bài thơ Qua Đèo Ngang được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.

:Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, :''Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. :Lom khom dưới núi, tiều vài chú :Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. :''Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, :''Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. :Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, :''Một mảnh tình riêng, ta với ta.

* Có dị bản ghi là "rợ _mấy nhà_" nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng không hợp lý vì ở đèo Ngang không thể có chợ. Mà nếu có chợ thì sẽ đông đúc chứ không heo hút "mấy nhà" được. Còn với chữ _rợ_ nghĩa là _vó_ (tiếng địa phương là _rớ_ hay _rợ_ hoặc _nhà tạm_) thì hợp lý hơn.

Xuất xứ và chủ đề

Trên đường đến Phú Xuân nhận chức của vua Minh Mạng, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người, Bà Huyện Thanh Quan sáng tác bài "Qua đèo Ngang". Bài thơ tả cảnh Đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà thương nước của một người con hiến mình cho tổ quốc.

Lần đầu nữ sĩ "bước tới Đèo Ngang", đứng dưới chân con đèo "đệ nhất hùng quan" này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình, vào thời điểm "bóng xế tà", lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã "tà", đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm "tà" cũng gợi buồn thấm thía. Câu 2, tả cảnh sắc: cỏ cây, lá, hoa... đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ "chen", vần lưng: "đá" – "lá", vần chân: "tà" – "hoa", thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước.

Thể thơ

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.

Nhận xét