✨Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Atomic Energy Institute, viết tắt VINATOM, tiền thân là Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt) là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, thành lập theo quyết định số 23/2/1979.
Người giữ chức vụ Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Bộ trưởng Nguyễn Đình Tứ, được bầu tại kỳ họp Quốc hội Việt Nam năm 1979. Không có quy định pháp luật Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là một Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chức năng, nhiệm vụ
Vị trí và chức năng
-
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (sau đây viết tắt là Viện) là tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, có chức năng giúp Bộ trưởng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai các hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; tổ chức hoạt động đào tạo, dịch vụ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo quy định của pháp luật.
-
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam có tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh là: Vietnam Atomic Energy Institute (viết tắt là VINATOM).
-
Viện có tư cách pháp nhân, là đơn vị dự toán theo quy định của Luật Ngân sách, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước và ngân hàng để hoạt động theo quy định của pháp luật. Viện có trụ sở chính đặt tại 59 Lý Thường Kiệt, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
Nhiệm vụ và quyền hạn
-
Nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, dự án trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản pháp luật và phối hợp triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
-
Thực hiện nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
-
Thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Tham gia thẩm định về công nghệ, kinh tế, kỹ thuật các dự án, chương trình quốc gia trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật.
-
Thực hiện vai trò của cơ quan hỗ trợ kỹ thuật quốc gia độc lập về: kiểm tra đánh giá và bảo đảm chất lượng, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân và bảo vệ môi trường, phục vụ các chương trình phát triển kinh tế – xã hội.
-
Nghiên cứu, triển khai ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ trong các ngành, lĩnh vực của đất nước; nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, công nghệ cao trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
-
Nghiên cứu, tiếp thu và phát triển khoa học, công nghệ trong việc xây dựng, vận hành cơ sở bức xạ và hạt nhân.
-
Đào tạo tiến sỹ, liên kết đào tạo sau đại học trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành năng lượng nguyên tử theo quy định của pháp luật.
-
Thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ; chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ vào sản xuất; triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm trên cơ sở ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong phạm vi chức năng nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật.
-
Thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu các sản phẩm và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo quy định của pháp luật.
-
Thực hiện dịch vụ tư vấn về: lập dự án; giám sát, thẩm tra; thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán các chương trình, dự án đầu tư, công trình xây dựng trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo quy định của pháp luật.
-
Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài về nghiên cứu khoa học, triển khai và ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
-
Triển khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; xây dựng và vận hành trang thông tin điện tử của Viện; phát hành các ấn phẩm, tài liệu thông tin khoa học công nghệ chuyên ngành năng lượng nguyên tử theo quy định của pháp luật.
-
Tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, triển lãm trong nước và quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao.
-
Quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc phạm vi thẩm quyền của Viện theo quy định của pháp luật.
-
Quản lý và tổ chức triển khai các dự án đầu tư, nâng cao năng lực thuộc phạm vi thẩm quyền của Viện theo quy định của pháp luật. Quản lý việc thiết lập, duy trì, bảo quản, sử dụng, phát triển và ứng dụng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và vận hành các hệ tính toán hiệu năng cao.
-
Quản lý về tổ chức, công chức, viên chức và người lao động; tài sản, tài chính, cơ sở vật chất; hồ sơ, tài liệu của Viện theo phân cấp của Bộ và quy định của pháp luật.
-
Thực hiện các nhiệm vụ khác được Bộ trưởng giao.
Lịch sử phát triển
- 1962, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập Viện Nguyên tử Đà Lạt với cơ sở đầu tiên do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. *Lò phản ứng nguyên tử TRIGA MARK – II công suất 250 kW do Hoa Kỳ viện trợ năm 1962-1963
- Cuối năm 1975, Việt Nam (sau khi thống nhất) mới chính thức có Viện Năng lượng nguyên tử và cùng năm đó vào tiếp nhận lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt . 26 tháng 4 năm 1976, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt trực thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) 23 tháng 2 năm 1979, Viện Nghiên cứu hạt nhân trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. 20 tháng 3 năm 1984, khôi phục và mở rộng lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt 21 tháng 1 năm 1991, thành lập Viện Công nghệ xạ hiếm và Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia 22 tháng 7 năm 1991, đưa thiết bị chiếu xạ RPP-150 với nguồn Co 60 hoạt độ ban đầu 110 kCi tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội vào hoạt động 13 tháng 9 năm 1993, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
- Vật lý toán và vật lý lý thuyết (MS:62 44 01 01)
- Vật lý nguyên tử và hạt nhân (MS:62 44 05 01)
- Hoá vô cơ (MS:62 44 25 01)
- Hoá phân tích (MS:62 44 29 01)
- Hoá phóng xạ (MS:62 44 33 01)
Định hướng phát triển
Chương trình quốc gia phát triển điện hạt nhân với nhà máy điện nguyên tử tại huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận: Nhà máy điện hạt nhân này sẽ được đưa vào vận hành năm 2017 - 2020 gồm 2 tổ máy công suất mỗi tổ 1000 MW, tiến tới tương lai 2000 đến 4000 MW, tương đương với sản lượng điện từ 14 đến 28 tỷ KWh Yêu cầu lực lượng sản xuất đối với nhà máy điện nguyên tử: Theo hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), để đưa một nhà máy điện hạt nhân vào hoạt động thì cần khoảng 3.500- 4.500 người, trong đó có khoảng 500-700 người có trình độ đại học và trên đại học, 700-1.000 kỹ thuật viên và 2.200-3.000 công nhân lành nghề các loại **Đến đầu năm 2006, Viện NLNTVN có 681 cán bộ với tuổi trung bình là 42, trong đó đại học 361 người, thạc sĩ 78 người, tiến sĩ và giáo sư, PGS 62 người. Do đó, Viện vẫn tiếp tục tuyển sinh các khoá huấn luyện 9 tháng về năng lượng nguyên tử.