✨Vùng đệm

Vùng đệm

nhỏ|Hình 1: Trong ảnh ở [[Vườn quốc gia Yellowstone|Yellowstone (Hoa Kỳ) này, thì vùng đệm là khoảng đất bò bizông đang đứng giữa rừng và dòng sông.]] Trong sinh học, vùng đệm là khu vực chuyển tiếp giữa hai hệ sinh thái khác nhau ở liền kề nhau., ,

Thuật ngữ này dịch từ tiếng Anh: ecotone (phát âm Quốc tế: /ˈekəˌtōn/) cũng như tiếng Pháp: écotone (/ê-cô-tôn/)... dùng để chỉ khoảng không gian giữa hai quần xã thuộc hai hệ sinh thái khác nhau. Ví dụ như vùng trung gian giữa hệ sinh thái rừng (trên cạn) với hệ sinh thái sông (thủy sinh) mô tả ở hình 1. Thuật ngữ "ecotone" được tạo ra từ sự kết hợp của từ eco- (sinh thái) với từ -tone (đổi sắc/căng thẳng) hàm ý chỉ một nơi mà hệ sinh thái đang "đổi sắc" hoặc "căng thẳng".

Thuật ngữ ecotone cũng còn được dịch là vùng rìa hoặc hệ đệm.

Minh hoạ

  • Khái niệm "vùng đệm" mới xuất hiện tương đối gần đây trong sinh thái học, vào khoảng những năm của thập niên 1980, phản ánh sự biến đổi của các hiện tượng quan sát được trên quy mô lớn. Nó đặc biệt rõ ở các vùng nông thôn (giữa nơi sinh sống và nơi canh tác), trong lĩnh vực sinh thái học cảnh quan, nhất là ở ranh giới giữa vùng đất cạn - vùng đất ngập nước - thủy sinh. Trong vùng nào có một dòng chảy (suối, sông) thì dòng chảy này có chức năng của một "hành lang sinh học", nó tách hai môi trường sống mà trong đó nó là nơi ở của các loài có khả năng sống ở cả hai môi trường, chẳng hạn như hải ly, lưỡng cư (hình 2).

nhỏ|Hình 2: Dòng sông là một "hành lang sinh học".

  • Trong hình 2 có thể thấy ít nhất hai vùng đệm:
  • vùng ven bờ nằm giữa sông (hệ sinh thái nước ngọt) và rừng (hệ sinh thái rừng).

  • (xa xa) vùng ven rừng nằm giáp ranh vùng rừng với vùng núi.nhỏ|Hình 3: Vành đai sậy là vùng đệm điển hình của hồ ôn đới, có xu hướng di chuyển dần về giữa hồ.

  • Vùng đệm dễ nhận thấy nhất ở nơi có các môi trường khác hẳn nhau, như giữa mặt đất với sông/hồ, chẳng hạn như cửa sông, đầm phá hoặc tại ranh giới giữa nước và đất như đầm lầy.

Đặc điểm

  • Vùng đệm là vùng giáp ranh giữa 2 hệ sinh thái chính, nên thường nhỏ hẹp hơn 2 hệ chính.
  • Vùng đệm nhỏ hơn 2 hệ chính, nên số lượng loài thường ít hơn.
  • Vùng đệm là vùng trung gian giữa 2 hệ sinh thái, nên tuy ít loài hơn, nhưng độ đa dạng sinh học lại cao hơn, do khả năng biến dị nội bộ các loài tăng.
  • Vùng đệm có hệ thực vật chuyển tiếp giữa hai quần xã khác nhau, do đó kéo theo hệ động vật khác nhau. Một vùng đệm có thể tồn tại dưới dạng vành đai rộng hoặc có thể khá nhỏ; chẳng hạn như vùng đệm giữa phá với rừng, nơi hai quần xã hòa quyện với nhau thường là lớn, còn vùng đệm giữa ao với ruộng lại nhỏ.
  • Trong vùng có tác động rìa, thường gặp những loài động vật cần một khu vực trung gian để chúng thực hiện tập tính tán tỉnh (ve vãn), làm tổ hoặc tìm kiếm thức ăn.
  • Một ecocline (phát âm Quốc tế: / iːkəʊklʌɪn /) hay vùng đệm sinh cảnh này có độ dốc của các yếu tố vô cơ trong môi trường. Mỗi đệm sinh cảnh đặc trưng bởi những yếu tố vật lý, hoá học, do đó kéo theo sự thay đổi của một số loài nhất định. Chẳng hạn, nó quyết định sinh vật ở đó có thể là loại đẳng nhiệt hay biến nhiệt (gọi là thermocline), cần những hoá chất cơ bản nào (gọi là chemocline), hay nồng độ muối ra sao (gọi là halocline) v.v.
  • Các yếu tố trong một ecocline (đệm sinh cảnh) thường dễ đo đạc được, dễ xác định được hơn nhiều so với các yếu tố của ecotone (đệm sinh học).