✨Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh
phải|nhỏ|
Lịch sử trong Thế chiến thứ hai
Eisenhower được chuyển từ vai trò chỉ huy trưởng Chiến trường Tác chiến Địa Trung Hải sang chỉ huy trưởng SHAEF, được thành lập tại Trại Griffiss, Bushy Park, Teddington, London, từ tháng 12 năm 1943; trụ sở tại một con phố liền kề tên là Shaef Way, và một cổng vào công viên được gọi là Shaef Gate, vẫn còn cho đến ngày nay. Southwick House được sử dụng làm trụ sở thay thế gần Portsmouth. Các nhân viên của nó đã lên kế hoạch phác thảo cho Chiến dịch Overlord do Trung tướng Sir Frederick E. Morgan, Tham mưu trưởng cho Tư lệnh tối cao quân Đồng Minh (Chief of Staff to the Supreme Allied Commander - COSSAC), và Thiếu tướng Ray Barker, lập ra. Morgan, người đã được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng vào giữa tháng 3 năm 1943, bắt đầu lên kế hoạch cho cuộc đổ bộ vào châu Âu trước khi Eisenhower được bổ nhiệm và đưa kế hoạch này thành phiên bản cuối cùng, được thực hiện vào ngày 6 tháng 6 năm 1944. Quá trình đó được định hình bởi Eisenhower và chỉ huy lực lượng trên bộ, Đại tướng Sir Bernard Law Montgomery, trong phần đầu của cuộc đổ bộ.
Chỉ huy sở của SHAEF vẫn ở lại Anh cho đến khi quân Đồng Minh đổ bộ thành công vào nước Pháp. Tại thời điểm đó, Montgomery không còn chỉ huy trưởng các lực lượng trên bộ nhưng tiếp tục làm Tổng tư lệnh Cụm tập đoàn quân 21 của Anh (21 AG) phụ trách cánh phía đông của đầu cầu Normandy. Cụm tập đoàn quân 12 của Mỹ (12 AG) do Trung tướng Omar Bradley chỉ huy phụ trách cánh phía tây của đầu cầu. Khi cuộc đột phá vào Normandy diễn ra, quân Đồng minh tiến hành cuộc tiến công vào miền nam nước Pháp vào ngày 15 tháng 8 năm 1944 với Cụm tập đoàn quân 6 của Mỹ (6 AG) dưới sự chỉ huy của Trung tướng Jacob L. Devers. Trong chiến dịch này, 6 AG nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ chỉ huy Lực lượng Đồng minh (Allied Forces Headquarters - AFHQ) thuộc Chiến trường Tác chiến Địa Trung Hải, nhưng sau một tháng quyền chỉ huy được chuyển cho SHAEF. Vào thời điểm này, ba cụm tập đoàn quân đã giữ các hướng tiến công trên Mặt trận phía Tây cho đến khi kết thúc chiến tranh — 21 AG của Anh ở phía Bắc, 12 AG của Mỹ ở Trung tâm và 6 AG ở phía Nam. Đến tháng 12 năm 1944, SHAEF đã dời chỉ huy sở về Khách sạn Trianon Palace ở Versailles, Pháp. Vào tháng 2 năm 1945, nó chuyển đến Reims và vào ngày 26 tháng 5 năm 1945, SHAEF chuyển đến Frankfurt.
Lực lượng thuộc quyền
SHAEF chỉ huy số lượng biên chế đơn vị lớn nhất từng tham gia vào một chiến dịch ở Mặt trận phía Tây, với các đơn vị của Mỹ, Pháp Tự do, lực lượng Lục quân Anh và Canada. Nó chỉ huy tất cả các lực lượng đổ bộ đường không của Đồng minh với tư cách là một Tập đoàn quân Dù, cũng như ba cụm tập đoàn quân, với tổng cộng tám tập đoàn quân dã chiến;
- Tập đoàn quân Nhảy dù 1 Đồng minh
- Cụm tập đoàn quân 21 Anh Tập đoàn quân 1 Canada Tập đoàn quân 2 Anh
- Cụm tập đoàn quân 12 Hoa Kỳ Tập đoàn quân 1 Hoa Kỳ Tập đoàn quân 3 Hoa Kỳ Tập đoàn quân 9 Hoa Kỳ Tập đoàn quân 15 Hoa Kỳ
- Cụm tập đoàn quân 6 Hoa Kỳ Tập đoàn quân 1 Pháp Tập đoàn quân 7 Hoa Kỳ
SHAEF cũng đã giữ quyền chỉ huy một lực lượng hải quân đáng kể trong Chiến dịch Neptune, giai đoạn tấn công Overlord, và hai lực lượng không quân chiến thuật: Không lực 9 Hoa Kỳ và Không lực 2 Chiến thuật RAF. Lực lượng máy bay ném bom chiến lược của Đồng minh tại Anh cũng được đặt dưới sự chỉ huy của SHAEF trong Chiến dịch Neptune.
Chỉ huy và tham mưu cao cấp
Các trưởng ban
- Bí thư, Bộ Tổng tham mưu: Đại tá Ford Trimble
- G-1: Thiếu tướng Ray Barker
- G-2 (Tình báo): John Whiteley, sau đó là Thiếu tướng Kenneth Strong
- G-3: Thiếu tướng Harold Bull
- G-4: Thiếu tướng Robert Crawford
- G-5: Thiếu tướng Sir Roger Lumley sau đó là Trung tướng Arthur Edward Grasett
- Ban Cung ứng / Liên lạc: Trung tướng John CH Lee
; Sĩ quan chính trị
- Đại sứ William Phillips (Hoa Kỳ)
- Ông Charles Peake (Anh)
- Ông Christopher Steel (Anh)
- Ông Samuel Reber (Mỹ)
- Đại sứ Robert Daniel Murphy (Hoa Kỳ)
Các phái bộ
Sau khi Đức đầu hàng, SHAEF được giải thể vào ngày 14 tháng 7 năm 1945.
