✨Đại hội Đế quốc (Thánh chế La Mã)
thumb|Cách sắp xếp chỗ ngồi tại lễ khánh thành Đại hội Đế quốc trong Toà thị chính [[Regensburg từ bản khắc năm 1675: Hoàng đế La Mã Thần thánh và các Tuyển đế hầu ngồi phía trước; các thân vương thế tục ở bên trái, thân vương giám mục ở phía phải, đại biểu các thành bang tự do của Đế quốc ngồi xung quanh]]
Đại hội Đế quốc (tiếng La Tinh: Dieta Imperii hay Comitium Imperiale; tiếng Đức: Reichstag), hay Nghị hội Đế chế, là một cơ quan tối quan trọng của Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó không phải là một cơ quan lập pháp theo nghĩa hiện đại, các thành viên của nó tập hợp lại giống như một diễn đàn trung tâm, nơi các vấn đề được đưa ra thảo luận và đàm phán, hơn là quyết định.
Thành viên của đại hội là những nhân vật đứng đầu địa vị Hoàng gia trong Đế chế La Mã Thần thánh, được chia thành 3 nhóm. Đại hội Đế quốc là một thể chế lâu đời, được phát triển và kiện toàn từ Hoftag (Hội đồng toà án) của thời Trung cổ. Từ năm 1663 cho đến khi Thánh chế La Mã chấm dứt tồn tại vào năm 1806, nó hoạt động thường trực tại Regensburg.
Những cá nhân đứng đầu các điền trang trong đế quốc đều có một ghế và được bỏ phiếu trong Đại hội Đế quốc. Nhưng chỉ có những quý tộc có đẳng cấp Vương hầu mới được hưởng một phiếu bầu cá nhân (Virilstimme), trong khi các điền trang thấp hơn như Bá tước Đế quốc và Tu viện Đế quốc, chỉ được quyền bỏ phiếu tập thể (Kuriatstimme) trong nhóm của họ, trường hợp này cũng tương tự với các Thành bang đế chế thuộc nhóm Thành bang. Các Hiệp sĩ Đế quốc tuy cũng là quý tộc và chỉ chịu phục tùng trước Hoàng đế như Thành bang đế chế tự do và Bá tước Đế quốc, nhưng họ không được tham gia Đại hội Đế chế.
Quyền bỏ phiếu về cơ bản phụ thuộc vào quyền của một nhà cai trị trên lãnh thổ của họ, thông qua việc thừa kế hoặc bằng một cách nào khác, những nhân vật này cũng có quyền biểu quyết tại đại hội. nó công nhận sự thống nhất của Đế chế La Mã Thần thánh và thành lập Reichskammergericht, tòa án tối cao của đế chế.
Những thành viên trong Đại hội
Các Tuyển đế hầu
thumb|Quốc huy của các [[Tuyển đế hầu xung quanh Đế huy của Hoàng đế La Mã Thần Thánh, từ cuốn sách "flags book" của Jacob Köbel (1545).]]
Cử tri đoàn (Kurfürstenrat), do Tuyển đế hầu của Tổng giáo phận vương quyền Maizn lãnh đạo với tư cách là "Archchancellor" (Tổng thủ hiến) của Đức. Bảy Tuyển đế hầu nằm trong nhóm Cử tri đoàn của Đế quốc đã được Sắc chỉ Golden bull năm 1356 chỉ định:
- Ba thành viên là Giám mục vương quyền, Tổng giám mục vương quyền của Mainz, với tư cách là Tổng thủ hiến Đức. Tổng giám mục vương quyền của Cologne, với tư cách là Tổng thủ hiến của Italia * Tổng giám mục vương quyền của Trier với tư cách là Tổng thủ hiến của Burgundy Bốn thân vương thế tục, Vua của Bohemia, với tư cách là Archcupbearer Tuyển đế hầu của Palatinate, với tư cách là Quản lý quốc gia (Erztruchsess) Tuyển đế hầu Sachsen, với tư cách là Tổng Nguyên soái Phiên hầu tước của Brandenburg, với tư cách là Tổng Ngân khố
Số lượng cử tri đoàn tăng lên 8 thành viên vào năm 1623, Công tước xứ Bavaria tiếp quản chức vụ Tuyển đế hầu của Bá tước Palatine, người nhận được một phiếu bầu riêng biệt trong cử tri đoàn theo Hòa ước Westphalia năm 1648 (Causa Palatina), bao gồm cả chức vụ cấp cao là Thủ quỹ Tổng tài (Archtreasurer). Năm 1692, Tuyển hầu tước của Hanover (tên gọi chính thức là Brunswick-Lüneburg) đã trở thành đại cử tri thứ 9 với tư cách là Tổng quản thủ lĩnh (Archbannerbearer) trong Chiến tranh Chín năm.
Trong Chiến tranh Kế vị Bayern các Tuyển đế hầu của Palatinate và Bayern được hợp nhất, theo Hòa ước Teschen năm 1779. Qua cuộc tái cơ cấu của Đức năm 1803 dẫn đến việc giải thể Tổng giáo phận vương quyền Cologne và Trier, Tổng giám mục vương quyền Mainz được nhận các lãnh thổ này, xem như là khoản bồi thường cho phần lãnh thổ bị mất do Đệ Nhất Cộng hòa Pháp chiếm đóng trong Cách mạng Pháp - Công quốc Regensburg mới thành lập. Lần lượt, 4 Thân vương thế tục được nâng lên thành Tuyển đế hầu:
- Công tước của Salzburg
- Công tước của Württemberg
- Phiên hầu tước của Baden
- Phong địa bá tước của Hesse-Kassel
Tuy nhiên, những thay đổi này không có tác động gì đến đế chế, vì Francis II với tư cách là Hoàng đế La Mã Thần thánh đã tuyên bố thoái vị, dẫn đến Đế chế bị giải thể chỉ 3 năm sau đó.
Các Thân vương thế tục
Viện Thân vương (Reichsfürstenrat hoặc Fürstenbank) là nơi ngồi của các Bá tước Hoàng gia cũng như các lãnh chúa, Giám mục vương quyền và các Tu viện trưởng Đế quốc. Số lượng thành viên của viện này rất đông đảo và mạnh mẽ, mặc dù thường xuyên bất hòa, họ luôn cố gắng bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự thống trị của các Tuyển đế hầu.
Các Thành bang
Viện Thành phố Đế quốc (Reichsstädtekollegium) phát triển từ năm 1489 trở đi, nó đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của Đại hội Đế chế như một thể chế chính trị. Tuy nhiên, cuộc bỏ phiếu tập thể của các thành phố ban đầu có tầm quan trọng thấp, cho đến khi Đại hội Đế quốc Augsburg diễn ra vào năm 1582. Viện được lãnh đạo bởi hội đồng thành phố của địa điểm tổ chức hội nghị; với việc triệu tập Đại hội Đế chế vĩnh viễn tại một địa điểm vào năm 1663, quyền lãnh đạo được chuyển cho Regensburg.
Viện Thành phố Đế quốc được chia thành 2 băng ghế, gồm Swabian và Rhenish. Các thành phố Swabia do Nuremberg, Augsburg và Regensburg lãnh đạo, các thành phố Rhenish do Cologne, Aachen và Frankfurt lãnh đạo.
Cơ quan tôn giáo
Bộ sưu tập hồ sơ
Sau khi Đế quốc Đức được thành lập vào năm 1871, Ủy ban Lịch sử của Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria bắt đầu thu thập hồ sơ đế quốc (Reichsakten) và hồ sơ Đại hội Đế chế (Reichstagsakten). Năm 1893, ủy ban xuất bản tập đầu tiên. Hiện tại, các năm 1524–1527 và các năm đến 1544 đang được thu thập và nghiên cứu. Một tập đề cập đến Đại hội đế quốc năm 1532 của Regensburg, bao gồm các cuộc đàm phán hòa bình với những người Kháng Cách ở Schweinfurt và Nuremberg, của Rosemarie Aulinger ở Vienna được xuất bản vào năm 1992.
Địa điểm tổ chức Đại hội
