✨Hạnh đầu đà
nhỏ|phải|Một vị sư ở Khao Luang, [[Thái Lan đang tu tập theo lối Hạnh đầu đà, đang thực hành Hạnh ở dưới gốc cây (rukkhamulik'anga)]] Hạnh đầu đà (tiếng Pali: dhutanga) là một trong những phương pháp tu khổ hạnh của Phật giáo để tôi luyện thân tâm, trừ bỏ phiền não cấu trần. Người tu theo hạnh đầu đà chấp nhận những khó khăn trong các vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại.
Nguồn gốc
Thái Tử Tất Đạt Đa (sau này trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) từ bỏ chức vị Thái tử và rời bỏ gia đình hoàng gia và lối sống xa hoa để trở thành tu sĩ và bắt đầu cuộc hành trình đi tầm sư học đạo. Ngài đã bỏ ra năm năm tầm sư học đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, thực tập các phương pháp khổ tu theo kiểu Bà-la-môn đương thời là trừng phạt thân thể (danta) từ hạn chế ăn uống hoạt động đến hành hạ thân xác như tự đánh đập, tắm nước bùn, tắm phân bò để "sinh thiên" (svarga) mong kết quà thống nhất hiệp thông với thượng đế Brahma. Kiểu khổ tu này làm cho thân thể Đức Phật suy kiệt, thậm chí suýt chết mà không đem lại kết quả nào. Đức Phật đã khước từ lối tu này vì nhận ra rằng đó chỉ là pháp tu hình tướng, ép xác khổ hành dè nén dục vọng thân xác nên chưa thể đưa hành giả đến giải thoát (mokṣa).
Đầu đà (dhuta - 頭陀) nguyên nghĩa là "rũ sạch". Đầu Đà là pháp hạnh chính thống của Phật giáo nguyên thủy và không phải lối tu hành xác mà Đức Phật khước bỏ. Tu hạnh Đầu đà rất gian khổ đòi hỏi hành gỉa ngoài nỗ lực ý chí phi thường còn cần phải có một thân thể kiên cường cho nên rất ít hành giả có thể tu theo pháp môn này. Cho nên Đức Phật từng tán dương Tôn giả Ca Diếp (Mahākāśyapa) cả đời là một vị tu theo giáo pháp Đầu đà (và sau đó trao truyền "chánh pháp nhãn tạng" cho Ca Diếp như truyền thừa Thiền tông tin tưởng).
Các hạnh đầu đà
Đức Phật cho phép và khuyến khích tỳ-kheo thực hành các hạnh đầu đà. Theo Phật giáo Thượng tọa bộ (Phật giáo Nam Tông) thì có tất cả 13 hạnh đầu đà được đề cập trong Thanh tịnh đạo:
Hạnh phấn tảo y (pamsukulik'anga) phấn tảo y là loại y phục được làm từ những miếng vải vụn, rách, không dùng đến được lấy từ nghĩa địa, bệnh viện, ở ngoài đường hay ở rừng,...Sau đó được giặt sạch và vá lại thành y để mặc. Vị hành giả tu tập không nhận sự cúng dường y áo của thí chủ mà đi nhặt những vải này. Cho nên không bị lệ thuộc vào thí chủ.
Hạnh ba y (tecivarik'anga): Vị tu sĩ tu hạnh đầu đà chỉ có ba y, bao gồm: thượng y, trung y và hạ y. Chư Tăng dùng y đó đến khi rách, thậm chí là không còn chỗ vá mới được may mới.
Hạnh khất thực (pindapatik'anga): Ở hạnh này, chư Tăng tu hành hạnh đầu đà mang bình bát đi khất thực để nuôi sống bản thân mình. Chư Tăng không đợi tín chủ mời đến nhà để cúng mà phải mang bình bát khất thực.
Hạnh khất thực từng nhà (sapadanik'anga): Đây là việc đi khất thực theo từng nhà, không vì chọn gia chủ giàu sang mà bỏ những gia đình nghèo khổ, không tới nơi có nhiều đồ ăn ngon mà phải khất thực tuần tự.
Hạnh nhất tọa thực (ekasanik'anga): Đó là khi ăn, nếu đã đứng dậy thì vị tu sĩ đó không ăn nữa, có người đến cúng thêm cũng sẽ không ăn.
Hạnh ăn bằng bình bát (pattapindik'anga): Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi là người ăn bằng bát.
Hạnh không để dành đồ ăn (khalu-paccha-bhattik'anga): Vị hành giả khi thọ thực không để dành đồ ăn còn dư (hoặc đồ tín chủ cúng dường) cho ngày hôm sau.
Hạnh ở trong rừng (Araññik'anga)
Hạnh ở dưới gốc cây (rukkhamulik'anga)
Hạnh ở ngoài trời (abbhokasik'anga)
Hạnh ở nghĩa địa (susanik'anga)
Hạnh nghỉ ở đâu cũng được (yatha-santhatik'anga): Tu sĩ tu hành hạnh đầu đà không chọn chỗ nghỉ, mà tùy thuận nghỉ ở đống rơm, gốc cây,...
Hạnh ngồi ngủ (nesajjik'anga): không được nằm khi ngủ.
Tuy nhiên Phật giáo Bắc Tông, có 12 hạnh đầu đà, được đề cập trong Thập địa kinh bao gồm
paiṇḍapātika: (chỉ ăn) đồ ăn khất thực,
tracīvarika: (chỉ mặc) ba bộ y,
khalupaścādbhaktika: không (chấp nhận thêm) sau khi bắt đầu ăn,
naiṣadyika: không nằm,
yathāsaṃstarika: giường ngủ phù hợp (với bất cứ thứ gì được cúng dường),
vṛkṣamūlika: (sống ở) gốc cây,
ekāsanika: (trong khi ăn) một lần ngồi,
ābhyavakāśika: (sống ở) nơi trống trải,
āraṇyaka: (sống ở) vùng hoang dã,
śmāśānika: (sống trong) nghĩa địa,
pāṃśūkūlika: (chỉ mặc) y làm từ vải bỏ đi,
nāmatika: (chỉ mặc) quần áo nỉ.
Lợi ích
Thực hành 13 pháp đầu đà không chỉ là khổ hạnh mà còn mang lại những lợi ích to lớn cho người tu tập, cụ thể:.
- Ajahn Mun (1870-1949) người sáng lập dòng Thiền trong rừng ở Thái Lan.
- Thích Minh Tuệ (1981): một khất sĩ người Việt Nam bộ hành khắp Việt Nam để tu tập 13 hạnh đầu đà.
