✨Khoa cử

Khoa cử

Khoa cử là chế độ tuyển bạt quan viên qua trắc nghiệm khởi phát từ Trung Hoa và trở thành pháp chế trọng yếu bậc nhất Hán tự văn hóa quyển.

Thuật ngữ

"Khoa cử" [[Chữ Hán phồn thể|phồn giản thể.]] Cảnh thi Đình thời Tống. Cảnh tràng thi thời Minh. Sĩ tử văn ban nom yết bảng, họa phẩm [[Cừu Anh thế kỉ XVI.]] Tiến sĩ cài hoa vinh quy. Khoa cử (科举) hay khoa cử chế (科举制) hàm nghĩa chế độ tuyển bạt người hiền tài (hiền sĩ) bằng hình thức trắc nghiệm (còn gọi khảo thí), người dự khoa cử được gọi sĩ tử (士子) theo quy tắc "đầu điệp tự tiến". Các quan viên (còn gọi triều sĩ) có trọng trách giám sát đôn đốc việc khoa cử được gọi chủ khảo viên (主考員) và do triều đình chỉ định. Tại Việt Nam, một thời gian ngắn sau khi Nho học bị bãi, chế độ này được gọi theo nghĩa tối là khoa bảng, nay đã được sửa về nghĩa đúng hơn.

Bắt đầu từ thời Tống, khoa cử chế được hoạch định nghiêm chỉnh trên phương châm coi hiền sĩ là giềng mối hưng thịnh quốc gia. Qua thời gian có nhiều biến thiên pháp độ, nhưng căn bản các quy tắc chính không đổi.

Sĩ tử phải trải qua tối đa 4 kì thi (tứ trường), hoàn cảnh xã tắc lâm nguy có thể 3 kì thi (tam trường), tức là bỏ Đình thí. Để được thi, sĩ tử phải qua hai vòng khảo hạch nhằm chứng minh hạnh kiểm và học lực. Kì này hầu như chỉ chiếu lệ, vì tổ chức ở địa phương nên dễ xảy ra tình trạng đút lót nhằm qua sơ khảo. Kì đầu gọi Hương thí, nghĩa là thi tại bản quán, người đỗ đạt gọi Hương cống, mà người trượt rất khó tìm được sự coi trọng hoặc theo các ngạch cần vận dụng kiến thức. Kì thứ gọi Hội thí, nghĩa là gom vài tỉnh làm một trường cho sĩ tử tiện đi lại, người đỗ gọi Cống sĩ (hiếm khi gọi Hội sĩ vì vào khoa này đã được coi thành tựu, người trượt đủ uy tín theo nghề dạy học). Kì cuối - cao nhất - được gọi Đình thí hoặc Điện thí, nghĩa là thi tại kinh kì hay trước sân rồng tùy điều kiện thực tế, người đỗ được gọi Tiến sĩ (đôi khi Đình sĩ, kiêng gọi Điện sĩ) ; tiến sĩ đương nhiên được bổ làm quan tùy năng lực, nhận nhiều ơn sủng triều đình và bản quán, nhưng trường hợp từ khước về quê vẫn được mời đứng ngôi cao trong các việc làng hoặc chốn định cư ; người trượt vẫn có thể được bổ làm chức dịch ở địa phương. Các quan về trí sĩ theo nghề dạy học mà có quá khứ đỗ tiến sĩ thường được kính trọng tột bực, có rất đông học trò theo bởi ngưỡng mộ tài năng và phẩm hạnh. Phần sĩ tử võ ban đỗ Đình thí chỉ được bổ vào cấm vệ quân, rồi mới từ đấy thăng tiến. Một quy tắc ngặt nghèo khác là nữ lưu không được ứng thí, người trái phép có thể chịu phạt, nhưng thường mang tính răn đe. Ngoài ra, không giới hạn độ tuổi thí sinh.

Dưới chế độ khoa cử là chế độ văn bài hoặc võ bài. Chế độ văn bài phổ biến hơn và có cấu trúc rất phức tạp để tránh gian lận. Sĩ tử hoặc quan chủ khảo bị phát hiện thi dối, chấm dối, thậm chí chấm sót, đều bị trừng trị rất nặng. Riêng hai trường hợp khi dễ đồ ngự dụng và phạm húy trong kì thi bị kết án trảm tiền hậu tấu, nhẹ hơn thì phạm nhân bị đóng gông bỏ ngục. Về căn bản, hình thức thi văn là dùng văn xuôi hoặc văn vần hoặc kết hợp để thử thách thí sinh.

Trong tiến trình lịch sử, khoa cử hoàn toàn chọn Hán tự làm phương thức diễn ngôn, Nho giáo làm hình thức biểu đạt ý niệm, cho nên khoa cử chế được quy vào bản chất Hán học hoặc Nho học, có lúc cả ba cách gọi này đều chỉ một pháp chế. Tại Việt Nam, theo lưu truyền, khoa cử văn ban chỉ có thời Hồ và Tây Sơn từng vận dụng Nôm tự và toán học, tuy nhiên thuyết này chưa được xác nhận ở giác độ khoa học. Tài liệu chính được dùng soạn đề thi và cho sĩ tử ngâm học là tứ thư ngũ kinh, tức những sách kinh điển Nho học, ngoài ra có tham khảo nhị thập tứ sử (chủ yếu chọn tích Hán-Đường-Tống-Minh), nên gọi chung là kinh sử. Tại An Nam thời Nguyễn mạt (cuối thế kỉ XIX), phần sử thường chọn thời sự thay vì cổ sự kí.

Bên cạnh khoa cử chế còn phẩm hạnh các khảo quan và thí sinh. Quan chủ khảo được bổ dụng phải là những quan viên được triều đình trọng vọng về tài năng và đức độ, mỗi lời nói phải thể hiện ân uy triều đình cũng như tư cách quan chức chuyên việc giáo hóa. Về phía sĩ tử, bản thân thí sinh chưa từng chịu án lệ nào và không thuộc các nhà chuyên nghề hát xướng, mại dâm, người đang trong kì hạn trở tang cũng không được đi thi. Sĩ tử văn ban trước khi dự thi phải tới văn miếu (lớn) hoặc văn chỉ (nhỏ) bái văn thánh (gồm Châu công, Khổng tử và 72 tiên hiền) để thể hiện tôn sư trọng đạo, hương cống và cống sĩ phải lạy bài vị vua (gọi là bái vọng) và các quan chủ khảo để tỏ lòng kính trọng. Tiến sĩ đăng khoa lạy vua xong được cài hoa lên mũ (hoa thật hoặc hoa giấy tùy ý nghĩa), nhận ngự yến và được phép vinh quy bái tổ. Những năm đói kém hoặc thời tiết xấu, triều đình thường có lệ cấp lộ phí cho sĩ tử, trường hợp phải kéo thời gian làm bài tới tối thì cho thắp đèn, lại sai người nấu cơm dọn nước cho dùng. Phần quan viên xách nhiễu sĩ tử mà bị phát giác thường nhận án phạt tương tự tội nhũng lạm.

Những người ứng thí rồi trúng cách làm quan đôi khi tự gọi hoạn lộ của mình là khoa hoạn.

Lịch sử

Họa phẩm [[Triều Tiên tả thư đường.]] Bài thi Đình triều Thanh năm 1894.

Hán quyển

Từ thời Chiến Quốc xuất hiện hình thức tiến cử, tức là thường dân nhờ mối quen biết hoặc giản đơn là hối lộ quan viên để được đưa vào hệ thống chính trị. Việc này nhằm bổ sung nhân sự cho ngạch hành chính và loại dần những người kém cả năng lực lẫn phẩm hạnh.

Bắt đầu từ Ngụy Văn đế Tào Phi mới có những đề xuất tuyển bạt hiền tài, nhưng chỉ trong con em quý tộc. Năm 587, Tùy Văn đế ban đạo dụ cứ ba năm một lần mở khoa thi chọn cống sĩ làm quan, thí sinh được gọi học sĩ. Sang triều Đường mới đặt ra khoa cử chế và bắt đầu hệ thống hóa việc tuyển hiền trong toàn quốc. Nhưng tựu trung, ngoại trừ thời Nguyên khá ngắn, các triều Tống và Minh rốt ráo tiến hành vừa cải cách vừa kiện toàn hóa khoa cử, khiến trở thành chế độ đặc sắc Á Đông và cả Hán quyển. Có những thời kì, chức sứ thần chỉ chọn từ các tiến sĩ đăng khoa. Sang đến thời Thanh, khoa cử bị coi là công cụ thuần hóa và hoàn toàn chững lại ở vùng lõi Hán quyển, bản thân cống sĩ, tiến sĩ cũng ít được trọng vọng hơn trước. Ngược lại, tại Việt Nam, Nguyễn Thánh Tổ có hẳn quyết sách chấn hưng Nho học và cải cách khoa cử chế nên lại gây phong trào học tập sôi động tại cực Nam Hán quyển, thậm chí hấp dẫn thêm sĩ tử Đại Thanh sang Việt Nam ứng thí, dẫu phần đông vẫn quay về cố hương làm quan.

Khoa cử chế thường được coi đặc trưng thời kì Đường-Tống-Minh, lan ra ngoài biên thùy Trung Hoa, nhưng chỉ có các triều đình Bột Hải, Đại Liêu, Đại Kim, Triều Tiên và Đại Việt/Đại Ngu/Đại Nam áp dụng triệt để.

Việt Nam

Đại Việt sử kí toàn thư ghi nhận, quốc học Việt Nam chính thức hình thành với việc hoàng đế Lý Thánh Tông cho dựng văn miếu tại kinh thành Thăng Long năm 1070, làm nơi thờ văn thánh và giáo huấn con em quý tộc (quốc tử). Tuy nhiên, mãi tới năm 1195 triều Lý Cao Tông mới có khoa cử lần đầu, lấy tam giáo đồng nguyên làm căn bản. Lối thi tam giáo kết thúc vào năm 1247 triều Trần Thái Tông. Năm 1396 đời Trần Thuận Tông đặt khoa thi chọn thái học sinh, chính thức lấy Nho giáo làm căn bản. Nhưng nhìn chung, khoa cử lúc này còn sơ khai.

Bắt đầu từ triều Lê Thái Tông, khoa cử Việt Nam được quy chuẩn hóa, trở thành điểm tựa hun đúc hiền tài và lựa ra quan viên cho nền hành chính. Thể lệ thi văn ban và võ ban tựu trung rất chặt chẽ nhằm không bỏ sót hiền tài, đồng thời thải ra những kẻ yếu về phẩm cách và năng lực. Các tiến sĩ Đại Việt từ thời Hậu Lê được cài hoa quỳnh lên mũ (trong khi tiến sĩ Triều Tiên dùng hoa bằng giấy màu).

Khoa cử Việt Nam và cả Á Đông được coi là kết thúc năm 1918 với kì thi cuối cùng do triều Nguyễn lập. Nho giáo cũng được gọi là cựu học để phân biệt với tân học là Tây học.

Văn hóa

Khoa cử chế được coi là nguyên mẫu để thiết lập hệ thống thi cử phổ thông và chế độ tuyển công chức viên hiện đại. Văn quan vinh quy đồ. Võ quan vinh quy đồ.

Hình:Iconographie Historique de l'Indochine Française 8.jpg|Kí họa Trịnh soái phủ và trường thi Đình tại Đông Kinh. Hình:Confucian scholar Nguyen Sieu giving lecture, Hanoi City, 1853 AD, gouache on paper - Vietnam National Museum of Fine Arts - Hanoi, Vietnam - DSC05087.JPG|Họa phẩm năm 1853 tả cụ Nguyễn Văn Siêu dạy học. Hình:Grenouilles.jpg|Họa phẩm _Lão oa giảng độc_. Hình:ThanhPhoNamDinh-PhapThuoc1.jpg|Sĩ tử cao niên ở Nam Định. Hình:ThiHuong1888.jpg|Trường thi Hương 1888 tại Nam Định. Hình:Đám đông tụ tập nghe xướng danh người trúng tuyển kỳ thi Hương tại Nam Định năm 1897.jpg|Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu (27 tháng 12 năm 1897) tại Nam Định. Hình:Các vị khảo quan trong lễ xướng danh khoa thi năm Đinh Dậu (Nam Định, ngày 27 tháng 12 năm 1897).jpg|Các vị khảo quan trong lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu (27 tháng 12 năm 1897) tại Nam Định. Hình:Tonkin Nam-Dinh Concours triennal un (...)Salles André btv1b531986812 1.jpg|Quan chủ khảo Cao Xuân Tiếu tại trường thi Nam Định năm 1897. Hình:Tonkin Nam-Dinh Concours triennal défilé (...)Salles André btv1b53198692x 1.jpg|Cống sĩ hành lễ lạy các quan chủ khảo tại tràng thi Nam Định năm 1897. Hình:Cảnh lều chõng tại trường thi Nam Định, khoa thi Hương năm Canh Tý (1900).jpg|Khoa thi Hương năm Canh Tí (1900) tại Nam Định. Hình:Các thí sinh thi đậu ở trường thi Nam Định sau khi được cấp mũ áo.jpg|Cử nhân đăng khoa nhận mũ áo. Hình:Van Mieu temple of Hanoi in 2015 B 27.jpg|Đệ nhất trường (第一場).
👁️ 105 | ⌚2025-09-16 22:45:05.861

QC Shopee
**Khoa cử** là chế độ tuyển bạt quan viên qua trắc nghiệm khởi phát từ Trung Hoa và trở thành pháp chế trọng yếu bậc nhất Hán tự văn hóa quyển. ## Thuật ngữ "Khoa
**Khoa cử** là chế độ tuyển bạt quan viên qua trắc nghiệm khởi phát từ Trung Hoa và trở thành pháp chế trọng yếu bậc nhất Hán tự văn hóa quyển. ## Thuật ngữ "Khoa
**Giáo dục khoa cử thời Mạc** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1527 đến năm 1592 trong vùng nhà Mạc
**Giáo dục khoa cử thời Mạc** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1527 đến năm 1592 trong vùng nhà Mạc
**Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1427 đến năm 1527. ## Hệ thống
**Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1427 đến năm 1527. ## Hệ thống
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
**Giáo dục khoa cử thời Tây Sơn** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802 trong vùng đất
**Giáo dục khoa cử thời Tây Sơn** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802 trong vùng đất
**Giáo dục và khoa cử thời Trần** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. ## Hệ thống
**Giáo dục và khoa cử thời Trần** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. ## Hệ thống
**Giáo dục khoa cử Đại Việt thời Lý** trong lịch sử Việt Nam phản ánh chế độ giáo dục và khoa cử nước Đại Việt từ năm 1010 đến năm 1225. ## Giáo dục Nhà
Văn Chương Khoa Cử Triều Nguyễn (Thi Hội, Thi Đình) Tác giả: Đinh Thanh Hiếu NXB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Năm XB: 3/2021 Số Trang: 672 - Sách bìa cứng Giáo dục
Văn Chương Khoa Cử Triều Nguyễn (Thi Hội, Thi Đình) Tác giả: Đinh Thanh Hiếu NXB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Năm XB: 3/2021 Số Trang: 672 - Sách bìa cứng Giáo dục
Văn Chương Khoa Cử Triều Nguyễn Thi Hội, Thi Đình Tác giả Đinh Thanh Hiếu NXB NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Năm XB 32021 Số Trang 672 - Sách bìa cứng Giáo dục
Tìm Hiểu Về Giáo Dục Và Khoa Cử Thời Xưa Cuốn sáchTìm Hiểu Về Giáo Dục Và Khoa Cử Thời Xưađược biên soạn thành hai phần: Phần 1: Những vấn đề về giáo dục khoa
Tìm Hiểu Về Giáo Dục Và Khoa Cử Thời Xưa Cuốn sáchTìm Hiểu Về Giáo Dục Và Khoa Cử Thời Xưađược biên soạn thành hai phần: Phần 1: Những vấn đề về giáo dục khoa
LƯỢC KHẢO VỀ KHOA CỬ VIỆT NAM Khoa cử là vấn đề hệ trọng trong tổ chức xã hội thời quân chủ phong kiến ở nước ta nói riêng và cả khu vực Đông Á
Sách là công trình nghiên cứu văn chương khoa cử qua hệ thống bài thi trong khoa cử đại khoa thi Hội, thi Đình trong khoa thi Tiến sĩ của triều Nguyễn, tập trung làm
Sách là công trình nghiên cứu văn chương khoa cử qua hệ thống bài thi trong khoa cử đại khoa thi Hội, thi Đình trong khoa thi Tiến sĩ của triều Nguyễn, tập trung làm
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
Giáo dục và Khoa cử ở Việt Nam dưới thời phong kiến là việc đào tạo và kén chọn nhân tài cho chế độ, nó là một định chế về chính trị mang tính chính
**Giáo dục và khoa cử thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. ## Hệ thống
Lược Khảo Về Khoa Cử Việt Nam "Kỳ thực ra, chính [khoa cử] đó là cái cơ quan nung đúc nhân tài của xứ mình, trong khoảng mấy trăm năm. Biết bao nhiêu danh nhân,
Lược Khảo Về Khoa Cử Việt Nam "Kỳ thực ra, chính [khoa cử] đó là cái cơ quan nung đúc nhân tài của xứ m.ình, trong khoảng mấy trăm năm. Biết bao nhiêu danh nhân,
Lời nói đấu Phần 1: Những vấn đề về giáo dục và khoa cử thời xưa Chương 1: Tình hình văn học và văn cử thời phong kiến ở nước ta Chương 2: Lược sử
Lời nói đấu Phần 1: Những vấn đề về giáo dục và khoa cử thời xưa Chương 1: Tình hình văn học và văn cử thời phong kiến ở nước ta Chương 2: Lược sử
**Giáo dục khoa cử thời Nguyễn** là hệ thống đào tạo nhân tài chủ yếu phục vụ trong bộ máy hành chính của hoàng triều nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1919 khi khoa cử
**Giáo dục khoa cử thời Nguyễn** là hệ thống đào tạo nhân tài chủ yếu phục vụ trong bộ máy hành chính của hoàng triều nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1919 khi khoa cử
Sách - Khoa Cử Việt Nam - Cử Nhân Triều Nguyễn Trình bày nội dung chính, họ tên, quê quán, khoa đỗ, hành trạng, tác phẩm của người đỗ thi Hương dưới thời các chúa
Sách - Khoa Cử Việt Nam - Cử Nhân Triều Nguyễn Trình bày nội dung chính, họ tên, quê quán, khoa đỗ, hành trạng, tác phẩm của người đỗ thi Hương dưới thời các chúa
Tác giả: Trần Văn Giáp Năm xuất bản: 2025 Kích thước:13 x 20 cm Nhà xuất bản Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh Số trang:124   "Kỳ thực ra, chính [khoa cử] đó là
**Tam nguyên**() là tên hiệu cho người đỗ đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội, thi đình trong hệ thống thi cử nho học. ## Các Tam nguyên trong nền nho học Việt Nam
**Tam nguyên**() là tên hiệu cho người đỗ đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội, thi đình trong hệ thống thi cử nho học. ## Các Tam nguyên trong nền nho học Việt Nam
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 **Khoa bảng Việt Nam** là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 **Khoa bảng Việt Nam** là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí
GIA M ĐAU SAU KHI NIE NG RA NG VO I SÁP NHA KHOA ( khuye n ca c Ba n va nha t la ca c ba n o xa la ne n mua
GIẢM ĐAU SAU KHI NIỀNG RĂNG VỚI SÁP NHA KHOA ( khuyên các Bạn và nhất là các bạn ở xa là nên mua lần 5-10 hộp cho đở tiền ship nếu k có mã
GIẢM ĐAU SAU KHI NIỀNG RĂNG VỚI SÁP NHA KHOA ( khuyên các Bạn và nhất là các bạn ở xa là nên mua lần 5-10 hộp cho đở tiền ship nếu k có mã
Thuật ngữ khoa cử từ lâu đã gắn liền với việc thi cử và những người đỗ đạt là các Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ, Hương cống, Cử nhân Còn võ cử,
Thuật ngữ khoa cử từ lâu đã gắn liền với việc thi cử và những người đỗ đạt là các Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ, Hương cống, Cử nhân Còn võ cử,
Thuật ngữ khoa cử từ lâu đã gắn liền với việc thi cử và những người đỗ đạt là các Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ, Hương cống, Cử nhân v.v... Còn võ
Thuật ngữ khoa cử từ lâu đã gắn liền với việc thi cử và những người đỗ đạt là các Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ, Hương cống, Cử nhân v.v... Còn võ