✨Kỷ (nước)
Kỷ () trong lịch sử Trung Quốc từ thời nhà Thương đến những năm đầu thời kỳ Chiến Quốc là một nước chư hầu của các triều đại nối tiếp nhau như nhà Thương, nhà Chu với thời gian tồn tại trên 1.000 năm.
Các vị quân chủ của nước Kỷ là người mang họ Tự, hậu duệ của vua Vũ nhà Hạ. Nước Kỷ thành lập vào khoảng thời nhà Thương nhưng không thể kiểm chứng được là có những sự kiện cụ thể nào từng xảy ra với nhà nước này trong thời kỳ nhà Thương. Đến đầu thời nhà Chu, nước Kỷ mới được nhắc tới, từ Kỷ Đông Lâu công trở đi mới có một số sử liệu có thể khảo chứng với sự truyền ngôi của khoảng 20 vị quân chủ. Tới năm 445 TCN, nước Kỷ bị nước Sở tiêu diệt.
Trong sử sách
Nước Kỷ là một tiểu quốc nên sử sách ít đề cập tới, trong Sử ký của Tư Mã Thiên tuy có quyển Trần-Kỷ thế gia chép lại lịch sử hai nước Trần và Kỷ, nhưng phần viết về nước Kỷ chỉ có trên 270 từ, lại còn ghi thêm rằng: "Kỷ tiểu vi, kì sự bất túc xưng thuật" (Kỷ quá nhỏ, nên chẳng đủ quan trọng để nói tới).
Kinh đô
Là một nước nhỏ, xung quanh lại có các nước lớn dòm ngó nên nước Kỷ nhiều lần bị buộc phải dời đô. Thời kỳ đầu, nước Kỷ có kinh đô tại khu vực đất Kỷ, ngày nay là huyện Kỷ của tỉnh Hà Nam, sau đó di dời tới khu vực ngày nay là huyện Tân Thái trong tỉnh Sơn Đông, rồi lại dời tới Duyên Lăng, ngày nay là huyện Xương Lạc, tỉnh Sơn Đông và cuối cùng là tới Thuần Vu, ngày nay là huyện An Khâu.
Thời kì nhà Thương
Thời kỳ nhà Thương, nước Kỷ đã tồn tại. Căn cứ Kinh Lễ, sau khi Thành Thang đánh bại Hạ Kiệt thì một số con cháu hoàng tộc nhà Hạ đã di dời tới đất Kỷ (nay là huyện Kỷ tỉnh Hà Nam). Sau đó có lúc được phong, có lúc bị phế bỏ ở đất này. Sử ký có chép: "Kỷ tại Thương thì, hoặc phong hoặc tuyệt".
Trong dân gian còn lưu truyền câu ngụ ngôn liên quan tới nước Kỷ gọi là "Kỷ nhân ưu thiên" (người đất Kỷ lo trời [sập]), đại ý chế nhạo sự lo âu vô vị và không cần thiết của người nước Kỷ về khả năng bầu trời sụp xuống đầu của họ, nhưng có những người lại cho rằng do nước Kỷ phải trải qua nhiều phen lo âu hoạn nạn mà tạo thành ý thức lo âu buồn phiền của người nước này.
Các chứng cứ khảo cổ về nước Kỷ không nhiều nhưng sự tồn tại của nước Kỷ từ thời Thương có thể được chứng thực bằng các giáp cốt văn thời kỳ Ân-Thương. Tổng cộng chỉ có 6 mảnh giáp cốt văn Ân Khư đề cập tới Kỷ hầu hoặc đất Kỷ, có thể coi là chứng cứ cho thấy nước Kỷ đã tồn tại từ thời nhà Thương. Tại huyện Kỷ trước đây từng có miếu Đông Lâu Công do người đời sau xây dựng để cúng tế vị khai quốc nước Kỷ là Đông Lâu công, nhưng đã bị phá hủy vào năm 1949. Tại Tân Thái, trong thời Đạo Quang và Quang Tự của nhà Thanh, người ta từng khai quật được một nhóm các cổ vật bằng đồng với dòng chữ "kỷ bá mỗi vong tác chu tào bảo đỉnh, kì vạn niên mi thọ, tử tử tôn tôn vĩnh bảo dụng hưởng" được làm ra từ thời Kỷ bá Mỗi Vong. Năm 2002, tại Chu Gia Trang ở huyện Tân Thái người ta lại phát hiện ra một quần thể mộ táng của quý tộc nước Kỷ, minh chứng rằng Tân Thái từng là vùng đất của nước Kỷ. Ngoài ra, năm 1962, một cửa hiệu đồ cổ tại Vũ Hán từng thu mua được một chiếc quỹ (bát đựng đồ ăn) thời Kỷ bá Mỗi Vong. Năm 1966, tại Đằng Châu, Sơn Đông, người ta cũng đã khai quật được một chiếc đỉnh (vạc) cũng thuộc thời kỳ Mỗi Vong.
Quân chủ nước Kỷ
Các vị quân chủ nước Kỷ trong thời nhà Thương không thể khảo chứng, đến thời nhà Chu thì ghi chép về các vị quân chủ nước Kỷ cũng không đầy đủ, hiện tại người ta công nhận 20 vị quân chủ có thể khảo chứng. Từ Kỷ Đông Lâu công cho tới Kỷ Giản công, về cơ bản là con kế nghiệp cha, chỉ một vài ngoại lệ như đã đề cập trên đây là em thay anh. Từ Kỷ Vũ công trở về trước thì thời gian tại vị của các vị quân chủ nước Kỷ cũng không thể khảo chứng do không có bất kỳ ghi chép nào khác có liên quan trong bất kỳ sử liệu nào. Từ Kỷ Vũ công trở về sau thì thời gian trị vì của các vị quân chủ có ghi lại, theo đó Kỷ Hoàn công là người tại vị lâu nhất, tới 70 năm còn Kỷ Ẩn công là người tại vị ít nhất, chỉ vài tháng.
Về vấn đề tước hiệu của các vị quân chủ nước Kỷ, mặc dù Sử ký ghi là tước công nhưng trên thực tế thì tước hiệu này cũng có sự thay đổi. Khi Chu Vũ Vương phong cho Đông Lâu công vào đất Kỷ làm chư hầu của nhà Chu thì ông này có tước công với lễ nghi cực kỳ long trọng. Sau khi Chu Bình Vương phải di dời sang phía đông thì vương triều nhà Chu đã suy yếu, tước phong cho quân chủ nước Kỷ có lẽ cũng bị giáng theo. Trong sử sách ghi chép về thời Xuân Thu, quân chủ nước Kỷ nhiều khi còn được gọi là "Kỷ hầu", "Kỷ bá", hay thậm chí là "Kỷ tử". Các cổ vật bằng đồng được khai quật tại Tân Thái với các chữ khắc (kim văn) đề cập tới Kỷ bá Mỗi Vong là minh chứng cho thấy tước hiệu của quân chủ nước Kỷ từng bị giáng xuống tới tước bá.
Danh sách các vị quân chủ
Danh sách các vị quân chủ dưới đây lấy theo Sử ký của Tư Mã Thiên, có chỉnh lý lại theo Hạ Thương Chu đoạn đại công trình cùng các sách của các tác giả liệt kê trong phần tham khảo dưới đây.
